VI PHONG HÀ ẢNH - Chương 2
4.
So đo?
Ta thực sự có rất nhiều chuyện cần so đo với Thẩm Hàm Nguyệt.
Bữa tiệc sinh nhật, chiếc đèn lưu ly, thậm chí là rất nhiều chuyện khác mà ta chưa từng nói ra, nhưng ta chưa từng thực sự so đo.
Nhưng giờ đây, thứ mà ta đánh mất trong bụng chính là cốt nhục của ta, chứ không phải là cỏ rác.
Y chỉ nhẹ nhàng nói một câu “Vẫn chỉ là một đứa trẻ” là muốn phủi sạch mọi chuyện không đáng nhắc đến này.
Như vậy không phải là quá dễ dàng rồi sao?
Ta cảm thấy căm phẫn trong lòng, nhưng trên mặt lại không thể hiện điều gì.
Chỉ nhẹ nhàng xoa xoa cái bụng nhỏ bằng phẳng, rũ mắt xuống: “Chuyện đã đến nước này rồi, dù có so đo cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa.”
Sự hối lỗi trong mắt Thẩm Tịch gần như muốn nhấn chìm ta.
Đêm đó, Thẩm Hàm Nguyệt bị phạt quỳ trong đình viện.
Giữa trời đông giá rét, nước đóng thành băng.
Mặc kệ Thẩm Hàm Nguyệt lung lay sắp đổ đến mức nào, có đáng thương ra sao thì Thẩm Tịch cũng không hề mềm lòng.
Cũng trong đêm đó, vết thương trên má nàng ta bị nhiễm lạnh nên bị lở loét bưng mủ, không thể nào hồi phục như cũ được nữa.
Suốt nửa năm sau, tôi vẫn tiếp tục lo liệu mọi việc trong phủ như thường lệ.
Còn Thẩm Hàm Nguyệt sau khi bị Thẩm Tịch cảnh cáo, cũng không còn gây thêm sóng gió gì.
Thậm chí để chữa trị vết thương cho nàng ta, ta còn đích thân tìm người Lưu Sơn nổi danh trong kinh thành để bào chế thuốc cho nàng ta.
Trong mắt người đời đều nói trưởng tẩu như mẫu thân.
Dù tiểu cô của Thẩm gia đã mất song thân nhưng lại có tẩu tẩu yêu thương, quả là có phúc ba đời.
Ngoài mặt, quan hệ giữa ta và Thẩm Hàm Nguyệt trở nên hòa hoãn hơn, còn Thẩm Tịch cũng lập được nhiều chiến công.
Thấy Thẩm gia sắp lên như diều gặp gió, chẳng ai ngờ rằng, ta lại chủ động hòa ly.
Ánh nến cháy “tách tách” một tiếng, dòng suy nghĩ của ta như bị một ngọn lửa thiêu đốt.
Thẩm Tịch nhíu mày, dường như đang cố nhớ lại rằng ta đã từng viết thư cho y khi nào.
Có lẽ y sẽ không bao giờ nhớ ra được.
Dù sao những chuyện ấy đã quá xa vời, trừ khi y tự mình trải qua, còn không thì làm sao có thể khắc ghi trong lòng?
Giống như y không nhớ rõ chính y đã từng tự tay viết một phong thư hòa ly cho ta.
Năm đó, khi y giao chiến với người Nguyệt thị, sợ rằng bản thân bỏ mạng nơi sa trường sẽ khiến ta mang danh “khắc phu” nên đã sai người vượt ngàn dặm đưa phong thư này.
Y nói rằng, nếu như y bỏ mình thì ta có thể cầm theo thư hòa ly mà tái giá.
Nếu y còn sống trở về, nhất định sẽ dùng kiệu tám người khiêng mà rước ta vào cửa lần nữa.
Nhưng ta chưa từng mang lá thư hòa ly thư ấy đến quan phủ đóng dấu.
Cũng như Thẩm Tịch không hề bỏ mình.
Ta cất nó cẩn thận trong ngăn tủ trang điểm.
Mỗi khi cảm thấy cô độc không có nơi nương tựa, ta lại lấy ra xem.
Nói là thư hòa ly, nhưng thực chất nó là minh chứng cho tình cảm khi xưa giữa ta và y.
Giờ lại trở thành cục diện này, thật mỉa mai làm sao!
Giọng Thẩm Tịch khàn khàn: “Chỉ vì một bức thư mà nàng muốn làm loạn đến mức phải hòa ly sao?”
Ta rất muốn nói cho y biết rằng không phải chỉ một bức thư, mà là rất nhiều bức thư.
Những ngày tháng một mình ta chống đỡ cả phủ đệ to lớn như vậy; những lần bị các phu nhân quan lại khinh miệt vì xuất thân thấp kém; thậm chí, những tháng ngày bị Thẩm Hàm Nguyệt chèn ép đủ đường.
Ta đều đã từng viết thư gửi cho y.
Nhưng y chưa từng hồi âm lại.
Chưa một lần nào.
Chuyện xưa như khói bụi tan biến, nếu tiếp tục tranh luận đúng sai, ngược lại khiến ta giống một phụ nhân lòng dạ hẹp hòi mà thôi.
Nếu đã như vậy thì chẳng còn gì để nói nữa.
Ta đặt lá thư hòa ly xuống bàn: “Thẩm Tịch, năm xưa ta và chàng tự đính hôn với nhau, Tống gia ta không cao sang gì, nhưng chàng chưa từng hủy hôn với ta mà cưới người khác, ta cảm kích điều đó.”
“Sau này, chàng rời nhà năm năm, ta cũng vì chàng mà trông nom phủ đệ suốt năm năm đó, coi như trả lại ân tình.”
“Hôn ước này kéo dài đến ngày hôm nay xem như đã thanh toán xong ân oán.”
“Từ nay về sau, sông núi xa cách, mỗi người một ngả.”
Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn nến, Thẩm Tịch lộ rõ vẻ kinh hoàng.
Ta khoác áo choàng rồi bước ra khỏi phòng.
Nhưng vừa đến hành lang đã bị Thẩm Hàm Nguyệt cản lại.
Nửa người nàng ta ẩn trong bóng tối, khẽ nhếch lên nụ cười mỉa mai: “Tống Thời Vi, ngươi tưởng rằng Thẩm phủ này là nơi muốn đến thì đến, muốn đi thì đi sao?”
“Hơn nữa, nếu ngươi đi rồi, thuốc trị sẹo của ta phải lấy ở đâu?”
Ta cũng bật cười.
“Tiểu cô à tiểu cô, ngươi thực sự nghĩ rằng thứ mà ngươi bôi lên mặt mỗi ngày là thuốc sao?”
Vẻ mặt Thẩm Hàm Nguyệt lập tức trắng bệch.
Giọng nói vỡ vụn từng chữ:
“…Ngươi nói gì?”
5.
Ta nhún vai, nở nụ cười vô tội.
“Đó là Ngũ Độc Cao, được chế từ bột phấn của năm loại độc trùng độc nhất trong tiết Kinh Trập (*). Trong đó có một loại nổi tiếng nhất là gì nhỉ? Để ta ngẫm lại xem…”
(*) Tiết Kinh Trập: vào ngày 5 hoặc 6 tháng ba, khoảng thời gian diễn ra Kinh Trập chính là lúc mà vạn vật đều sinh sôi, nảy nở, phát triển mạnh mẽ do tiết trời ấm áp, thuận lợi. Vào ngày đầu tiên của tiết Kinh Trập Mặt trời nằm ở kinh độ 345 độ.
“Hình như gọi là đỉa trùng nhỉ?”
Mỗi một câu ta nói ra, sắc mặt của Thẩm Hàm Nguyệt lại tái đi một phần.
Đến cuối cùng, nàng ta lấy khăn tay che miệng nôn khan từng cơn.
Hộp thuốc mà nàng ta vốn nâng niu cẩn thận, giờ như củ khoai lang nóng bỏng tay, lập tức bị nàng ta ném đi.
Đêm đó, ta thu dọn hành lý, lặng lẽ rời khỏi phủ trong đêm.
Nói ra cũng buồn cười, năm xưa ta gả vào Thẩm phủ, khi đó mẫu thân vẫn còn sống, tuy gia cảnh không giàu có nhưng vẫn đủ ăn đủ mặc.
Dù của hồi môn không phải ba thuyền năm xe xa hoa, nhưng những gì cần có đều có đủ.
Vậy mà sau năm năm bị bào mòn tại Thẩm phủ, bạc tiêu gần hết thì không nói đến làm gì, ngay cả những món đồ quý giá trong tay cũng chẳng còn lại bao nhiêu.
Những thứ có chút giá trị, ta đều đã đem đi cầm cố hoặc dùng làm quà tặng khi còn quản lý chi tiêu trong phủ.
Ta càng nghĩ càng tức giận.
Trước khi rời đi, ta vơ vét phòng khố một hồi rồi mới chất đầy ba cỗ xe ngựa rời khỏi phủ.
Vì thư hòa ly chưa được trình lên quan phủ, nên gã sai vặt trong phủ đều không hay biết gì, tất nhiên chẳng dám ngăn cản ta lại.
Những món đồ dễ mang theo và dễ bán đều bị ta đổi thành ngân phiếu ngay trong đêm.
Còn những vật quý giá khó di chuyển, ta thuê người mang về Tống gia.
Tống gia suy tàn, huynh trưởng mới bắt đầu bước chân vào chốn quan trường, khó tránh khỏi phải tặng lễ qua lại, có vài món đồ để giữ thể diện cũng tốt.
Cùng với những món đồ ấy còn có một bức thư.
Trong thư, ta giải thích rõ mọi chuyện, cũng nói rằng ta không muốn liên lụy đến danh tiếng quan chức của ca ca, đợi sau này xông pha giang hồ nhất định sẽ trở về kinh thành.
Sau khi làm xong mọi thứ, ta ôm hành lý lên thuyền.
Chủ thuyền là một cặp phu thê, người nam nhân chèo thuyền, phụ nhân làm cá.
Thấy ta chỉ lẻ loi một mình họ không hỏi han nhiều, chỉ mỉm cười:
“Cô nương có muốn uống canh cá không?”
Gió lạnh trên sông thấm vào da thịt, được uống một bát canh nóng thì còn gì bằng.
Thao tác của người phụ nhân rất nhanh nhẹn.
Sau khi mổ bụng và cạo vảy cá bèn lập tức thả vào chảo dầu chiên sơ cho vàng, sau cùng thêm một gáo nước sôi.
Chỉ chớp mắt nước canh đã chuyển thành trắng sữa.
Lửa cháy đỏ rực, bà chủ thuyền múc cho ta một chén canh.
Vừa nếm thử một ngụm, cảm giác ấm áp lan khắp tứ chi, không nhịn được mà hỏi: “Đây là cá gì mà tươi ngon như vậy?”
Bà chủ thuyền mỉm cười tự hào: “Chỉ là cá sông bình thường thôi, chẳng qua do tay nghề của ta đấy mà!”
Chủ thuyền đang uống ngụm canh không khỏi bật cười: “Đúng vậy, ngoài nương tử nhà ta ra, người khác đều không làm ra được mùi vị này đâu.”
“Nhưng nếu nói về vị tươi ngon, vẫn phải kể đến “cá vược tứ mang” của Qua Châu, ta từng may mắn được ăn một lần, nước canh sánh mịn như sữa bò…”
Hai người nhìn nhau, rồi bật cười hòa thuận.
Chủ thuyền vừa uống canh vừa lớn tiếng gọi khách: “Còn ai đi Túc Châu nữa không nào——”
Thấy chủ thuyền cởi dây neo thuyền, con thuyền khẽ chao đảo vài cái.
Bỗng nhiên, trong lòng ta có một ý nghĩ, vội vàng kéo váy, sải bước nhảy lên bờ.
Bà chủ thuyền sững sờ: “Cô nương, chẳng phải ngươi muốn đi Túc Châu sao? Sao lại…”
Thuyền rời bến càng lúc càng xa.
Ta không kịp mở túi bạc, không thể làm gì khác đành rút chiếc trâm ngọc trên đầu ném vào lòng bà chủ thuyền.
“Đa tạ bát canh cá.”
“Ta nghĩ kỹ rồi, ta không đi Túc Châu nữa, ta muốn đến Qua Châu.”
Bởi vì ta cũng muốn nếm thử cá vược tứ mang có thật sự ngon như lời đồn không.
6.
Nửa đêm có mưa, thấm ướt song cửa sổ.
Thẩm Tịch ngồi trước bàn, uống hết chén rượu này đến chén rượu khác
Y vốn không phải kẻ thích rượu chè bê tha, nhưng giờ khắc này, nếu không làm cho ý thức mơ hồ đi đôi chút thì sẽ đau lòng không chịu nổi.
Thư hòa ly lặng lẽ nằm trên bàn.
Y lại nghĩ đến khung cảnh khi nãy.
Thời Vi nói nguyên nhân nàng hoà ly với y là vì những lá thư.
Trong quãng thời gian hành thân năm năm này, phần lớn thời gian y đều đóng quân ở biên cương, hoàn toàn không hay biết những chuyện trong nhà.
Chỉ có Hàm Nguyệt cứ cách ba tháng sẽ gửi thư đến quân doanh, nội dung chẳng có gì quan trọng, đa số là những lời nũng nịu kể khổ mà thôi.
Y chưa từng nhận được bức thư nào của Thời Vi cả.
Nhưng dáng vẻ của nàng khi nãy… không giống như đang nói dối.
Chẳng lẽ, y đã sai rồi?
Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Thẩm Tịch, y ném mạnh chén rượu xuống bàn: “Người đâu.”
“Tướng quân có gì phân phó?”
“Thư từ qua lại trong quân doanh hiện đang được lưu trữ ở đâu?”
Sắc mặt gã sai vặt tái nhợt, thân thể run lên, lập tức quỳ xuống.
“Nhưng mà có gì sơ suất? Xin tướng quân cứ phân phó, tiểu nhân lập tức đi làm…”
Thẩm Tịch quát: “Đừng lắm lời, còn mau lấy ra đây!”
Cuối cùng, những bức thư cũng được dâng lên trước mặt Thẩm Tịch.
Việc trong quân doanh bận dộn, văn kiện quân doanh nhiều vô số kể.
Thẩm Tịch lật tìm hồi lâu nhưng không có chút manh mối nào, ngay trước khi y nổi giận, gã sai vặt run rẩy quỳ xuống, dâng lên một chiếc hộp gấm khác.
Bên trong là những bức thư được cất giữ gọn gàng, dưới ánh nến chập chờn, Thẩm Tịch mở ra lá thư đầu tiên.
Đó là bức thư viết vào mùa xuân năm Chiêu Nhân thứ tám, tức là thởi điểm hai người vừa thành thân.
Giấy viết thư tinh tế xinh đẹp, nét chữ tiểu khải đoan trang:
“Phu quân ở biên cương có khỏe không? Hoa ngọc lan trong phủ đã nở, thiếp gom được không ít hoa khô. Ngọc lan mang tính ôn, có lợi cho thông phế. Phu quân có thời gian hãy pha trà mà uống.”
Thẩm Tịch mở chiếc túi gấm trong phong thư, quả nhiên bên trong có không ít cánh hoa ngọc, chỉ tiếc chúng đã héo tàn qua năm tháng.
Lá thư thứ hai được gửi vào mùa đông năm Chiêu Nhân thứ chín.
Năm đó, Nguyệt thị liên tục quấy nhiễu biên cương, y là thống lĩnh quân nên không thể về kinh đón Tết.
Trên thư chỉ viết:
“Biên cương thiếu thốn, phu quân nhất định phải giữ gìn sức khỏe, đừng để bị cảm. Thiếp đã may cho chàng một chiếc áo lông, nếu thiếp có thể tự tay mặc cho chàng thì tốt rồi.”
Kèm theo lá thư chiếc áo lông, chỉ tiếc là giờ không thấy đâu nữa.
Gà sai vặt càng cúi thấp đầu hơn.
Thẩm Tịch tiếp tục mở thư ra xem, lá thứ ba, thứ tư, thứ năm…
Thời Vi gửi thư không nhiều, ngoại trừ hai năm đầu thành thân nàng viết thư nhiều hơn thì về sau cứ cách ba đến năm tháng mới viết một bức.
Ban đầu nàng lo lắng cho sức khoẻ của y, về sau thư của nàng đã biến thành những lời than trách.
Trong thư đều viết Hàm Nguyệt giở trò ở trong phủ như thế nào, làm khó nàng ra sao.
Ví dụ như làm bẩn y phục khi nàng mở tiệc tiếp khách, hay đánh đổ đèn dầu khi nàng kiểm tra sổ sách.
Tuy nói ra thì đều là chuyện nhỏ nhặt.
Nhưng Thời Vi như một đứa trẻ mách tội với người lớn, ghi lại tất cả những ấm ức của mình trong từng lá thư.
Thẩm Tịch nhướn mày đọc hết toàn bộ, khi mở lá thư cuối cùng ra, nụ cười lập tức cứng đờ.
“Thẩm Tịch, Thẩm Hàm Nguyệt đã làm vỡ chiếc đèn lưu ly của ta. Nếu chuyện này không thể giải quyết, vậy thì duyên phu thê giữa chúng ta xem như đã tận.”
Nhưng y đã xử lý như thế nào?
Chỉ vẻn vẹn vài câu chữ nhưng khiến toàn thân Thẩm Tịch rét run.
Y đóng hộp gấm lại, miễn cưỡng đứng lên: “Vì sao trước đây những bức thư này không được đưa đến tay ta?”
Gã sai vặt run rẩy, lắp bắp đáp: “Là… là tiểu thư nói…”
“Nói cái gì?”
“Nàng nói rằng mọi chuyện trong phủ đều đã được nàng ấy báo lại với ngài, nên thư của phu nhân không cần phải gửi cho ngài…”
Thẩm Tịch chưa bao giờ nghĩ rằng Thời Vi thực sự đã viết thư cho y.
Nhưng những dòng chữ chân thành, yêu thương rõ ràng ấy đã bị năm tháng bào mòn trở thành những ký ức mơ hồ.
Mà người khiến mọi chuyện ra nông nỗi này chính là y.
Y quay đầu, nhìn chằm chằm vào ánh nến đang chập chờn thoáng ngẩn người.
Không hiểu sao y cảm thấy hít thở không thông.
Mãi đến khi gió đêm lùa qua rèm châu, một người sải bước tiến vào.
“Tướng quân, phu nhân nàng ấy…”
Thẩm Tịch vui mừng quá đỗi, lúc đứng lên suýt làm đổ giá nến.
“Là phu nhân quay về sao?”
Gã sai vặt sững sờ trong giây lát rồi mới khó xử lắc đầu: “Không phải… là phu nhân nàng…”
“Thế nào?”
“Phu nhân nàng ấy đã mang theo tài sản trong khố phòng… đi Túc Châu rồi.”
“Bộp!”
Chiếc chén rượu chưa kịp đặt xuống, xoay một vòng trên bàn rồi rơi xuống đất vỡ vụn thành từng mảnh.
